Trước khi trở thành một điểm du lịch nổi tiếng hàng đầu ở Bắc kỳ, Đồ Sơn lại ít được biết tới. Chính Jean Dupuis, lái buôn và cũng là kẻ khiêu khích mở đường cho thực dân Pháp lấy cớ xâm lược Bắc kỳ đã là người nước ngoài đầu tiên đặt chân lên Đồ Sơn vào năm 1880. Nhưng phải đến năm 1886, nhờ mấy nhà thám hiểm chuyên nghiệp người Bồ Đào Nha, các ông Vlaveanos, Costa và Gouma “phát hiện” ra Đồ Sơn và đã bị chinh phục bởi không khí trong lành tại nơi này mà Đồ Sơn mới được ghi vào bản đồ, và người Pháp dần nhận ra vùng đất đắc địa này khi Hải Phòng được hoàng đế Đồng Khánh giao cho Pháp làm nhượng địa (cùng với Hà Nội và Đà Nẵng vào năm 1888), rồi xây dựng cảng biển đầu tiên ở Bắc kỳ. Ngay trên đảo Hòn Dấu ở ngoài khơi Đồ Sơn không xa, Pháp đã cho xây chiếc đèn biển đầu tiên, phát sáng từ độ cao 140m, khởi công xây từ 1892 và hoàn thành 1898, để dẫn tàu vào cảng qua cửa Sông Cấm.Bà Đế là một thiếu nữ xinh đẹp họ Dao ở làng Ngọc Xuyên. Giọng nói trong trẻo và sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành của người thôn nữ ấy đã làm chúng bạn phải ghen tị.
Một ngày nọ, khi chạy trốn trong hang núi ở Đồ Sơn, người con trai của chúa Trịnh bỗng nghe thấy tiếng hát cất lên từ trong thung lũng:
Tay cầm bán nguyệt xênh xang,
Bao nhiêu thảo mộc lai hàng tay ta,
Anh hùng ví biết tay ta,
Rồng mây gập gỡ ắt là thành danh.
Đó chính là Bà Đế vừa hát vừa cắt cỏ. Vị vương tử liền đem lòng yêu mến cô gái ấy, bèn gọi lại và hứa sẽ rước nàng về triều khi mình trở lại kinh thành. Nhưng vị vương tử trẻ đã quên đi lời hứa trong khi Bà Đế bị làng phạt vạ rất nặng. Không ai tin chuyện nàng kể và dân làng quyết định ném người con gái ấy xuống biển. Mặc dù cổ bị buộc đá rất nặng vì có thai, Bà Đế vẫn cố ngoi lên mặt biển hai lần để chứng minh mình vô tội. Những kẻ giết người đã dùng sào để dìm nàng cho tới khi chết.
Hàng năm vào ngày 16 tháng giêng âm lịch, nhiều người tới đây để dâng hương tưởng nhớ bà.
Nguồn gốc tên gọi
Thời Lê , thầy địa lý Tả Ao biết ở vùng núi này có huyệt phát tích đế vương nên đã tìm đến. Khi ông tới chợ Nghi Dương vào quán nghỉ chân uống nước, hỏi thăm đường, bà hàng nước mách : “Ông cứ đi qua Cổ, rồi qua Họng là đến Đầu”. Thầy địa lý tưởng bài hàng nước nói lớm. qua đò Họng mới sang được Đầu Sơn. Chuyện Tả Ao đến Đồ sơn là truyền ngôn. Còn việc đầu thế kỉ XVI nhân có lời sấm truyền “phương Đông có khí sắc thiên tử “ nên tháng 4 năm Tân mùi (1541) vua Lê Tương Dực sai Nghĩa Quốc Công Nguyễn Văn Lang đem thuật sĩ ra Đồ Sơn để yểm bùa trấn áp thì Đại Việt sử kí toàn thư có chép. Một số bản đồ địa lý thời Pháp cũng ghi đảo Hòn Dấu là Đầu Sơn, Thư của lãnh sự Hà Nội Kergaradec gửi Thống đốc Nam kì ngày 30-5-1877 cũng nhắc đến Đầu Sơn :” Tỉnh Hải Dương cách đây 3 năm từng là địa bàn của phong trào (hải tặc) quan trọng nhất …. Cách đây vài ngày, cũng bọn ấy đã cướp phá làng Đầu Sơn, cách hải đăng không xa …(AOM,Aĩ,13002). Vậy nên có thể coi Đầu Sơn là tên dân gian, còn Đồ Sơn là tên chữ. Sách Thủy Kinh chú của Lệ Đạo Nguyên còn ghi “Ở Nê lê có thành do vua A dục xây “. Nhiều nhà nghiên cứu cho Nê lê là vùng núi Đồ Sơn sau này.
Địa danh Đồ Sơn được Đại Việt sử lược nhắc đến đầu tiên khi ghi chép việc vua Lý Thánh Tông ngự ra cửa Ba Lộ cho xây tháp Đồ Sơn (tháp Tường Long) vào tháng 9 năm Mậu Tuất (1058). Nhưng giới nghiên cứu đều thống nhất Đồ Sơn thời vua Hùng dựng nước thuộc địa bàn bộ Dương Tuyền, hay Thang Tuyền nước Âu Lạc. Đến thời Bắc thuộc thuộc về huyện An Định. Đến đời Lý, Trần Hồ và thuộc Minh nằm trong địa bàn huyện An Lão. Năm 1469, vua Lê Thánh Tông thấy huyện này quá rộng nên cắt phần lớn đất huyện An Lão để lập thêm huyện Nghi Dương thuộc huyện Nghi Dương. Đời Mạc, đặt cấp tổng thì 3 xã Đồ Sơn, Đồ Hải, Ngọc Tuyền hợp thành một tổng gọi là tổng Đồ Sơn; đến đời Đồng Khánh (1886-1889) Ngọc Tuyền đổi tên thành Ngọc Xuyên. Hai xã Phụ Lỗi, Bàng Động thuộc Nãi Sơn, Tiểu Bàng và thôn Trung Lộc. Hai xã Bàng Động và Tiểu Bàng vốn là một xã mang tên Đại Bàng, sau 1 trận dịch tễ lớn dân phải phiêu tán, khi lần lượt hồi cư mới chia thành 2 xã riêng biệt. Các tổng Đồ Sơn, Đại Lộc (tên cũ :Thiên Lộc), Nãi Sơn (tên cũ :Tú Sơn) đều thuộc huyện Nghi Dương xứ Đông (đời Lê Thánh Tông gọi là Hải Dương). Thời Mạc, cả huyện Nghi Dương là trung tâm của Dương Kinh, kinh đô thứ 2 của vương triều này.
Tác giả: Tổng hợp
Ý kiến bạn đọc
Những tin cũ hơn
Nằm yên bình soi bóng mình bên vịnh bắc bộ, Hải Phòng được gọi với cái tên Thành phố Hoa phượng đỏ và một cái tên nữa dù không chính thức nhưng cũng đã được dùng cho Hải Phòng từ những năm sau giải phóng thống nhất đất nước là Thành phố Cảng. Ngay từ cái tên của Thành phố đã mang lại cho các bạn...